EVFTA có thể thay thế TPP?
Credit: vietnambiz.vn
LS Nguyễn Văn Thân
4/03/2017
Theo viện nghiên cứu kinh tế McKinsey,
Việt là nước hưởng lợi nhiều nhất từ TPP với GDP tăng hơn 10% và xuất cảng
30% trong một thập niên. Câu hỏi đặt ra là không có TPP, Việt Nam có cần tiến
hành cải cách theo đúng quy định cạnh tranh công bằng của các hiệp định thương
mại tự do hay không và cụ thể là bảo vệ quyền lao động và môi trường. Trong
hoàn cảnh hiện nay với thảm họa Formosa và tình trạng môi trường ô nhiễm ngày
càng nặng khắp mọi nơi, bảo vệ môi trường sẽ là một thách thức sống còn của
người dân Việt Nam.
Hiệp định Thương Mại Tự do giữa Việt Nam và
Liên Âu (EVFTA) đã kết thúc vào ngày 1/12/2015 và văn bản EVFTA đã được công bố
vào ngày 1/2/2016. Dự trù là EVFTA sẽ có hiệu lực trong năm
2018. Câu hỏi đặt ra là EVFTA sẽ có tác động gì đến quyền lao động và
môi trường? Nó có thể thay thế TPP để giúp Việt Nam phát triển kinh tế và thoát
khỏi cái bóng của Trung Quốc hay không?
Ngay sau ngày 30/4/1975, Châu Âu đã có tiếp xúc
và viện trợ kinh tế cho Việt Nam trị giá khoảng 110 triệu Mỹ kim. Viện trợ bị
ngưng khi Việt Nam xâm chiếm Cam Bốt vào năm 1979. Sau một thập niên chiếm
đóng, Việt Nam rút quân vào năm 1989 mở đường cho việc thành lập quan hệ ngoại
giao giữa Việt Nam và Liên Âu vào ngày 28/11/1990. Quan hệ phát triển tốt đẹp
nên tới ngày 17/7/1995, hai bên tiến hành kỵ hiệp định khung về hợp tác thành
lập các nguyên tắc căn bản nhằm thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Liên Âu đi xa hơn
nữa. Tới năm 2001, Liên Ấu bắt đầu nêu nhân quyền là một vấn đề căn bản nếu
Việt Nam muốn đẩy mạnh quan hệ. Tới năm 2003, Việt Nam đồng ý với đề nghị của
Liên Âu thành lập cơ chế đối thoại chính thức và định kỳ về nhân quyền một năm
2 lần và nâng cấp đối thoại từ chuyên viên lên cấp Bộ Ngoại Giao và Đại Sứ. Đáp
lại, Hội đồng Châu Âu thông qua các quy định về hệ thống ưu đãi thuế quan giúp
Việt Nam xâm nhập thị trường chung Châu Âu. Vào tháng 5 năm 2007, hai bên tiến
hành đàm phán một hiệp định khung Đối Tác và Hợp Tác Toàn diện (Partnership and
Co-Operation Agreement hoặc PCA). PCA hoàn tất và được ký kết vào năm 2010.
Trong khuôn khổ PCA, Liên Âu cho phép Việt Nam tiếp cận thuận lợi hơn thị
trường Liên Âu qua quy chế thuế quan ưu đãi và viện trợ kinh tế giúp Việt Nam
phát triển. Trong năm 2010, Liên Âu hứa viện trợ cho Việt Nam 900
triệu Euro (1.12 tỷ Mỹ kim) cũng là phần thưởng sau khi Việt Nam ký PCA.
Vào tháng 10 năm 2012, Liên Âu bắt đầu đàm phán
Hiệp Định Thương mại Tự do (FTA) với Việt Nam. Trước đó vào năm 2009 thì EU
cũng đã bắt đầu đàm phán FTA với Singapore và Mã Lai. Liên Âu hoàn tất đàm phán
FTA với Singapore vào năm 2015. Trong khi đó, tiến trình đàm phán với Việt Nam
chỉ kéo dài 3 năm và cũng kết thúc vào cuối năm 2015. Điều này phù hợp với chính
sách của Liên Âu là tiến hành đàm phán với từng quốc gia trong Khối ASEAN.
Văn bản EVFTA gồm có 21 chương bao gồm nhiều đề
tài gồm có quy định hải quan, rào cản kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh, thị trường
dịch vụ, đầu tư, e-commerce, mua sắm chính phủ, công ty quốc doanh, chính sách
cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, hòa giải tranh chấp, phát triển bền vững và nguyên
tắc minh bạch. Dưới EVFTA, Liên Âu và Việt Nam đồng ý tháo gỡ 99% các loại rào
cản thuế quan qua một lộ trình dài từ 7 tới 10 năm. Ngoài ra, hai bên cũng đồng
ý hạ giảm rào cản kỹ thuật phi thuế quan. Việt Nam sẽ là quốc gia đầu tiên công
nhận nhãn hiệu ”Made in EU” cho mọi sản phẩm ngoại trừ nông phẩm và dược phẩm.
Một số thương hiệu mang tính địa lý chẳng hạn như trà Mộc Châu và cà phê
Ban Mê Thuộc của Việt Nam sẽ được Liên Âu công nhận. Các công ty của Liên
Âu sẽ có quyền đấu thầu các công trình công cộng gồm có xây dựng cơ sở hạ tầng,
tham gia vào các dự án của doanh nghiệp nhà nước ví dụ như các công ty cung cấp
điện lực và đường sắt cùng với 34 bệnh viện công cộng và các dự án của hai
thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh. Việt Nam cũng cam kết bảo vệ sở hữu trí
tuệ ở mức độ cao và mở cửa thị trường dịch vụ gồm có thư tín, vận chuyển, tài
chánh, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng hải và bảo vệ môi trường.
Việt Nam cũng hưởng được nhiều quyền lợi từ
EVFTA. Liên Âu hiện là thị trường xuất cảng đứng thứ hai với 19% chỉ sau Mỹ với
21%. Cán cân mậu dịch nghiêng về Việt Nam khá nhiều với tỷ lệ xuất nhập cảng là
21.3 tỷ và 5.8 tỷ Mỹ kim trong năm 2013, 22.2 tỷ và 6.2 tỷ trong năm 2014 và 30
tỷ và 8.4 tỷ trong năm 2015. Tức Việt Nam xuất siêu sang Liên Âu gần 22 tỷ Mỹ
kim xấp xỉ với con số nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc. Liên Âu hiện đang
là nhà đầu tư lớn nhất của Việt Nam với hơn 2,000 dự án đầu tư trị giá gần 40
tỷ Mỹ kim. Liên Âu cũng là một trong những nguồn viện trợ lớn nhất
của Việt Nam. Trong năm 2015, Liên Âu cam kết là sẽ tăng mức viện trợ không bồi
hoàn cho Việt Nam từ 300 triệu Euro đến 400 triệu Euro cho khoảng thời gian từ
2014 – 2020 và sẽ sớm công nhận diện kinh tế thị trường khi Việt Nam đạt đủ
điều kiện. Hơn nữa, EVFTA sẽ cho Việt Nam điều kiện xâm nhập thị trường
500 triệu người tiêu thụ tương đối khá giả. Các ngành như may dệt, giầy dép, cà
phê, hải sản, đồ gỗ có cơ hội gia tăng xuất cảng mạnh.
Thứ hai, thị trường Việt Nam và Liên Âu mang
tính bổ sung chớ không cạnh tranh với nhau. Việt Nam nhập cảng sản phẩm công
nghệ cao từ Liên Âu gồm có thiết bị, máy móc, xe hơi, dược phẩm…Việt Nam có cơ
hội tiếp cận công nghệ khoa học kỹ thuật tân tiến nâng cao năng suất lao động
rất cần thiết trong tiến trình phát triển kinh tế. EVFTA có tiềm năng gia tăng
đầu tư từ Liên Âu nhiều hơn nữa vào Việt Nam. Có nghĩa là với cả tiền vốn và
công nghệ từ Liên Âu, Việt Nam có thể trở thành một trong những thị trường năng
động và hấp dẫn cho giới thương mại và đầu tư quốc tế.
Thứ ba, Liên Âu sẽ mang đến Việt Nam nhiều kiến
thức và kinh nghiệm trong các dịch vụ tài chánh, bảo hiểm, viễn thông, năng
lượng và vận chuyển hàng hải. Nếu biết tận dụng thì Việt Nam có thể trở thành
cầu nối giữa thị trường Liên Âu và các quốc gia trong Khối ASEAN.
Dĩ nhiên là bên cạnh đó cũng có nhiều thách
thức. Doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp dịch vụ như ngành vận
chuyển, logistics, cảng biển, tài chánh, bảo hiểm sẽ chịu sức ép cạnh tranh
ngay trên sân nhà. Về kinh nghiệm và kỹ năng quản trị cùng với phẩm chất và vốn
liếng cao, các đại công ty của Liên Âu sẽ dễ dàng đánh bại công ty quốc doanh
của Việt Nam vốn là một môi trường tham nhũng béo bỡ cho nhiều quan chức cán
bộ. Giới tiêu thụ Châu Âu thuộc loại khó tính về mặt phẩm chất và vệ sinh. Các
mặt hành xuất cảng rẻ tiền của Việt Nam có thể không đáp ứng được tiêu chuẩn
cao của họ. EVFTA đòi hỏi Việt Nam tuân thủ các điều khoản quy định về vệ sinh,
lao động và môi trường. Có nghĩa là gia tăng giá thành sản phẩm đáng kể cho các
mặt hàng xuất cảng. Doanh nghiệp Việt Nam nếu không cạnh tranh nỗi có thệ bị
thôn tính, trừ khi Việt Nam tiến hành cải cách sâu rộng và toàn diện nhằm gia
tăng mạnh mẽ năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Bằng không thì EVFTA có thể đẩy Việt Nam vào bẫy thu nhập thấp và trở thành gia
công cho một Liên Âu giàu có.
Điều khoản nhân quyền
(Human Rights Clause)
Theo Điều 1 của PCA, Việt Nam cam kết tôn trọng
những giá trị và nguyên tắc dân chủ và nhân quyền theo đúng tinh thần của Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Chương 15 của EVFTA nói về Giao Thương và Phát Triển
Bền Vững gồm có các điều khoản về trách nhiệm bảo vệ quyền lao động và môi
trường tương tự như TPP. Hai bên cảm kết tuân thủ và thi hành 4 tiêu chuẩn lao
động căn bản của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế ILO gồm có quyền tự do thành lập
nghiệp đoàn độc lập và thương lượng tập thể, ngăn cấm mọi hình thức cưỡng bức
lao động và lao động trẻ con, và mọi hình thức kỳ thị tại nơi làm việc. Về môi
trường, hai bên cam kết tiến hành phê chuẩn mọi Công Ước liên quan tới trách
nhiệm bảo vệ môi trường chẳng hạn như Công Ước về Đa Dạng Sinh Học (Convention
on Biological Diversity) cà Công Ước Khung Liên Hiệp Quốc về Biến Đổi Khí Hậu
(UN Framework Convetion on Climate Change).
Chương 18 của EVFTA nói về nguyên tắc minh
bạch. Dưới các điều khoản của chương này, hai bên cam kết tuân thủ nguyên tắc
kiểm soát và giải trình với công chúng. Mọi quyết định và thông tin lập pháp và
hành chánh liên quan tới VEFTA phải được phổ biến rộng rãi và hai bên phải
thành lập cơ chế tiếp nhận ý kiến đóng góp và phê bình.
Tuy
nhiên đối với Việt Nam, cái gì viết trên văn bản và chuyện xảy ra trên thực tế
thường có một khoảng cách rất xa. Với bản chất lươn lẹo và côn đồ thì
không có gì bảo đảm rằng Đảng CSVN sẽ thật sự tuân thủ và thihành cam kết về
quyền lao động và môi trường theo quy định của EVFTA. Bằng chứng là chỉ một
ngày sau khi phái đoàn nhân quyền của Liên Âu tới Việt Nam vào tháng 12 năm
2015 và nói chuyện với một số nhà hoạt động nhân quyền như Ls Nguyễn Văn Đài
thì nhà cầm quyền đã bắt giữ Ls Đài và cộng sự Lê Thu Hà rồi giam giữ họ hơn cả
năm mà vẫn chưa chính thức đưa ra tòa truy tố. Ít ra với TPP, Hoa Kỳ ép
Việt Nam ký hàng loạt thỏa thuận riêng nhằm để trừng phạt nếu Hà Nội
giở trò. Trong khi đó thì EVFTA không đặt nặng vấn đề roi vọt mà chỉ khuyến
khích và nhắc nhở. Xem ra, con đường đấu tranh chống độc tài đảng trị đòi lại
quyền làm người và cho một đất nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh và tiến bộ hãy
còn khá dài.
Comments
Post a Comment