ASEAN: 50 Tuổi Mà Vẫn Chưa Chịu Lớn
Credit: aseanstats.org
Ls Nguyễn Văn Thân
11/05/2017
Cuối tháng
trước, Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN diễn ra tại Manila từ 26 tới 29 tháng 4. Năm
nay Phi Luật Tân nắm ghế chủ tịch luân phiên. Lần đầu tiên Tổng Thống Duterte
đóng vai chủ nhà chủ trì các phiên họp quốc tế. Các lãnh tụ tham dự Hội Nghị
cũng ăn mừng sinh nhật 50 tuổi của ASEAN. Một đề tài quan trọng trong nghị
trình là bộ Quy Tắc Ứng Xử tại Biển Đông. Cái bóng Trung Quốc lúc nào cũng bảo
phủ toàn Hội Nghị.
ASEAN có 10
quốc gia với 620 triệu dân nhiều hơn 28 quốc gia Liên Minh Châu Âu với 510
triệu dân. Nhưng tổng số GDP của ASEAN chỉ là 2,800 tỷ Mỹ kim so với 18,000 tỷ
của Liên Minh Châu Âu. Vào năm 2003, ASEAN ra Tuyên Bố Hòa Hợp ASEAN II tại Ba
Li khẳng định quyết tâm xây dựng Cộng Đồng ASEAN trước năm 2020 dựa trên 3 trụ
cột: Cộng Đồng An Ninh, Cộng Đồng Kinh Tế và Cộng Đồng Văn Hóa - Xã Hội. Nhưng
trước sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, lãnh đạo ASEAN đã đồng thuận rút ngắn
thời hạn và thống nhất kế hoạch hình thành Cộng Đồng ASEAN vào cuối năm 2015.
Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN chính thức ra đời vào ngày 1/1/2016 với mục tiêu biến
ASEAN thành một thị trường chung và là cơ sở sản xuất duy nhất có sự lưu chuyển
tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và lao động có tay nghề. Rào cản thuế quan
hoàn toàn được tháo bỏ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư
ngoại quốc, san bằng khoảng cách phát triển, gắn kết các thành viên vào một
tương lai và vận mệnh chung cũng như tạo thế đứng và sức mạnh tập thể với các
đối tác trong vùng gồm có Trung Quốc, Nhật và Úc mà trong đó Trung Quốc là đối
tác quan trọng nhất.
Nhưng theo Ts
Christopher Roberts của Học Viện Quốc Phòng Úc thì có một thực tế không thể
chối cãi được là sự chia rẽ và nghi ngờ giữa các thành viên ASEAN đã tạo điều
kiện cho Trung Quốc thi hành chính sách ngoại giao lừa đảo và hai mặt về vấn đề
Biển Đông đến nỗi Trung Quốc hầu như hoàn toàn chiến thắng và đạt hết mục tiêu
chiến lược trước một khối ASEAN chia năm xẻ bảy. Thật ra lúc đầu ASEAN cũng khá
đồng nhất về khía cạnh này. Nhưng sự gia nhập của các thành viên mới cùng với
cuộc khủng hoảng tài chánh Châu Á 2007 làm các quốc gia thành viên bắt đầu mất
lòng tin vào văn phòng ASEAN tại Jakarta và tiến hành đi đêm với Trung Quốc.
Năm thành viên sáng lập gồm có Nam Dương, Singapore, Mã Lai, Thái Lan và Phi
Luật tân có thể nói là một trục quốc gia thân phương Tây. Mãi tới năm 1990 thì
Nam Dương và Singapore mới thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Lần đầu
tiên Trung Quốc bày tỏ tham vọng và yêu sách chủ quyền 80% của Biển Đông qua
Đạo Luật Lãnh Hải và Vùng Tiếp Giáp 1992, 6 thành viên ASEAN (Brunei nha nhập
vào năm 1984) lập thức ra thông báo phản đối. Vào ngày 22/7/1992, Ngoại Trưởng
ASEAN kêu gọi các bên đòi hỏi chủ quyền tự chế và giải quyết tranh chấp bằng
biện pháp hòa bình cũng như góp phần xây dựng một bộ quy tắc ứng xử quốc tế áp
dụng cho Biển Đông. Cũng trong năm đó, ASEAN gián tiếp xác nhận lập trường bằng
cách thông qua Hiệp Ước Khu Vực Đông Nam Á phi Vũ khí Hạt nhân. Trung Quốc lập
tức phản đối vì Hiệp Ước này xác nhận các nguyên tắc liên quan tới chủ quyền
lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế dưới UNCLOS. Khi được ASEAN ngỏ lời mời,
Trung Quốc đã từ chối tham gia vào Hiệp Ước này.
Trung Quốc bắt
đầu thi hành ý đồ độc chiếm Biển Đông vào năm 1995 khi tiến hành xâm chiếm và
xây cất cấu trúc trên đá Vành Khăn (Mischief Reef) mà Trung Quốc giải thích là
để giúp ngư dân lánh bão. Đá Vành Khăn nằm trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế
của Phi Luật Tân và chỉ cách Palawan khoảng 145 hải lý. ASEAN phản ứng mạnh mẽ
và lên án hành vi này. Sự kiện này phần nào thúc đẩy tiến trình Việt Nam được
chấp thuận làm thành viên ASEAN vào tháng 7 năm 1995.
Từ 1997 tới
1999, Bắc Kinh bắt đầu tìm cách gây chia rẽ trong nội bộ ASEAN khi tổ chức này
thu nhận thêm thành viên mới gồm có Lào, Cam Bốt và Miến Điện. Tuy nhiên, cuộc
Khủng Hoảng Tài Chánh Châu Á vào năm 1997 dẫn đến sự sụp đổ của nền kinh tế và
lãnh đạo chính trị ASEAN tại Nam Dương Va Thái Lan. Trong hoàn cảnh khó khăn
này, phải mất hết 5 năm ASEAN mới hoàn tất bản thảo Quy Tắc Ứng Xử (COC). Bắc
Kinh cũng soạn riêng một bản COC. Hai bên trao đổi bản thảo COC vào tháng 3 năm
2000 và đồng ý sáp nhập hai bản thảo. Nhưng ASEAN bắt đầu cho thấy dấu hiệu
chia rẽ. Mã Lai ngả theo Trung Quốc là không muốn văn bản có tính ràng buộc
pháp lý. Từ đó, Quy Tắc Ứng Xử trở thành Tuyên Bố Ứng Xử (DOC).
DOC đề ra 5
biện pháp xây dựng lòng tin và một số nguyên tắc chống leo thang căng thẳng.
Nhưng DOC đã không ngăn được Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo và hoàn tất các
căn cứ quân sự tại Trường Sa là những điều hoàn toàn đi ngược lại với các
nguyên tắc của DOC. Dấu diệu chia rẽ giữa các nước ASEAN lộ rõ khi Phi Luật Tân
xé lẻ và ký thỏa thuận thăm dò địa chấn chung với Trung Quốc (JSMU) ở Trường
Sa. Lúc đầu, Hà Nội tỏ ý phản đối nhưng rồi cũng chịu thua và gia nhập vào thỏa
thuận này. Tới cuối năm 2007 thì JSMU chấm dứt mà không đưa đến kết quả gì.
Nhưng điều này cho thấy chiến thuận của Trung Quốc là vừa thương lượng với khối
ASEAN vừa đi đêm và thỏa thuận dưới gầm bàn với từng quốc gia một. Chẳng khác gì
sử dụng chiến lược liên hoành để phá vỡ hợp tung trong thời Chiến Quốc.
Trong năm 2007
khi JSMU bắt đầu sụp đổ, Trung Quốc ép buộc tập đoàn dầu khí Anh-Mỹ-Việt rời bỏ
khu vực khai thác gần bờ biển miền Nam Việt Nam. Mặt khác, tàu tuần duyên Trung
Quốc rượt đuổi và đâm chìm 3 tàu cá Việt Nam. Tới năm 2008 khi cuộc khủng hoảng
tài chánh toàn cầu diễn ra và nhân lúc phương Tây suy yếu, Bắc Kinh chụp cơ hội
đề ra kế hoạch theo đuổi một nền ‘’Văn Minh Đông Phương hài hòa’’ (Harmonious
Eastern Civilisation). Dưới sách lược này, Trung Quốc sẽ thiết lập quy tắc
ngoại giao trong khu vực mà Trung Quốc sẽ đóng vai trò chủ đạo. Các nước chung
quanh nên ngoan ngoãn hợp tác và không làm phật lòng Trung Quốc. Trọng tâm là
loại các cơ chế và nguyên tắc luật pháp quốc tế mà Trung Quốc cho là do thế
giới tự do phương Tây (đang dãy chết) đặt ra. Trật tự an ninh tại Biển Đông sẽ
do chính Trung Quốc với ‘’sự hợp tác’’ của các nước ASEAN quản lý. Nước nào
không nghe lời thì sẽ bị trừng phạt. Chẳng hạn như khi Mã Lai và Việt Nam cùng
đệ đơn báo cáo chung về thềm lục địa vào năm 2009, Trung Quốc lập tức phản đối
và chính thức nộp bản đồ “Đường 9 Đoạn”cho Liên Hiệp Quốc.
Mặc dù ASEAN
nhiều lần kêu gọi nhưng Trung Quốc không muốn tiến hành thương lượng COC và đổ
lỗi cho Việt Nam và Phi Luật Tân là đã quốc tế hóa việc tranh chấp. Trên thực
tế, hành vi hung hăng của Trung Quốc ngày càng gia tăng. Vào năm 2011, Trung
Quốc quấy nhiễu và xua đuổi tàu khảo sát tại Reed Bank trong vùng đặc quyền
kinh tế của Phi Luật Tân và đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh cá và xua đuổi ngư
dân Việt Nam ra khỏi ngư trường truyền thống tại Hoàng Sa. Hành động khiêu
khích leo thang đến mức báo động khi Trung Quốc xâm chiếm bãi cạn Scarborough
vào năm 2012. Tàu Trung Quốc và Phi Luật Tân đối mặt nhau tại đây. Sau khi Hoa
Kỳ đứng ra hòa giải thì hai bên đồng ý rút lui. Tàu Phi Luật Tân rút lui nhưng
Trung Quốc nuốt lời và trụ lại luôn. Tại Hội Nghị Bộ Trưởng ASEAN vào năm 2012
tại Phnom Penh, Trung Quốc đi đêm với Cam Bốt dẫn đến sự kiện lịch sử là lần
đầu tiên ASEAN không ra được một tuyên bố chung đặt câu hỏi cho vai trò trọng
tâm cũng như tương lai của ASEAN. Mất lòng tin vào cơ chế này, Phi Luật Tân
quyết định tiến hành khởi kiện Trung Quốc vào năm 2013.
Vào tháng 5
năm 2014, Trung Quốc lộ rõ ý đồ tham vọng độc chiếm Biển Đông khi quyết định hạ
giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt
Nam cách đảo Lý Sơn 120 hải lý. Lãnh đạo Việt Nam sử dụng đường dây nóng và
liên tục gọi điện thoại trong một tháng nhưng Trung Quốc không bắt điện thoại
trả lời.
Nhiều hình ảnh
vệ tinh được tiết lộ vào năm 2015 cho thấy Trung Quốc đã hoàn tất xây dựng đảo
nhân tạo tại Trường Sa với đầy đủ phương tiện đường băng và kho chứa vũ khí xác
nhận quan điểm Trung Quốc không coi ASEAN ra gì. Vào ngày 23/4/2016, Ngoại
Trưởng Vương Nghị tuyên bố là Trung Quốc và 3 nước ASEAN là Cam Bốt, Lào và
Brunie đã đạt đồng thuận 4 điểm về Biển Đông gồm có: (1) Trường Sa không phải
là vấn đề của ASEAN; (2) mọi quốc gia được quyền sử dụng phương pháp giải quyết
tranh chấp do họ tự chọn; (3) mọi tranh chấp nên được giải quyết bằng thương
lượng song phương và (4) tình hình an ninh tại Biển Đông là do Trung Quốc và
ASEAN quyết định. Chiến thuật ngoại giao này đã tách ASEAN thành hai nhóm. Vào
tháng 6 năm 2016, ASEAN ra tuyên bố cứng rắn sau một phiên họp tại Mã Lai kêu
gọi chấm dứt mọi hành động quân sự hóa tại Biển Đông nhưng chỉ trong 3 tiếng
đồng hồ sau thì tuyên bố này được rút lại biến ASEAN thành trò hề trước công
luận quốc tế.
Nam Dương với
gần 40% tổng số GDP của ASEAN có tiềm năng lãnh đạo và lèo lái toàn khối đoàn
kết và thống nhất quan điểm và lập trường để đối đầu với Trung Quốc. Nhưng tân
Tổng Thống Widodo còn thiếu kinh nghiệm ngoại giao. Hơn nữa Trung Quốc cũng
đang ve vãn Jakarta với nhiều hứa hẹn quyền lợi kinh tế. Phi Luật Tân dưới thời
Duterte đã quay 180 độ. Tuy chiến thắng vẻ vang sau khi kiện Trung Quốc ra Tòa
Trọng Tài Quốc Tế nhưng Duterte không muốn nhắc tới thành tựu này. Cũng không
có gì ngạc nhiên là dưới sự chủ trì của Duterte, ASEAN ra tuyên bố trễ mà hoàn
toàn không đá động gì về những hành động quân sự hóa của Trung Quốc tại Biển
Đông sau Hội Nghị Thượng Đỉnh tại Manila vào cuối tháng 4 vừa qua.
Trước mắt, một
khối ASEAN trưởng thành về mặt chiến lược, ngoại giao và an ninh vẫn còn là một
viễn ảnh xa vời. Hoặc nói một cách khác thì ASEAN đã già 50 tuổi mà vẫn chưa
chịu lớn.
Comments
Post a Comment